Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế

Ngày đăng: 06/12/2019 - 09:12

Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế là một nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, được Người đề cập một cách khá toàn diện, trở thành kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới kinh tế, có giá trị định hướng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.

1. Nội dung quan điểm hợp tác kinh tế của Hồ Chí Minh

Hợp tác kinh tế trong nước

Hợp tác giữa các ngành nghề: Với tầm nhìn bao quát và phương pháp tư duy biện chứng về phát triển trong lĩnh vực kinh tế, Hồ Chí Minh khẳng định: “trong nền kinh tế quốc dân có ba mặt quan trọng: nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp. Ba mặt công tác này quan hệ mật thiết với nhau”1.

Theo Hồ Chí Minh, nông nghiệp và công nghiệp là hai ngành sản xuất cơ bản, nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của nền kinh tế, nhưng có sự hợp tác chặt chẽ ở nhiều nội dung. Nông nghiệp “cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy”2, đồng thời là thị trường lớn tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp. Nông nghiệp càng phát triển càng tạo ra nhu cầu và khả năng về tiêu thụ hàng công nghiệp. Do đó, Người khẳng định: “phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh”3

Bên cạnh việc đánh giá cao vai trò của nông nghiệp “là gốc, là chính”, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng nông nghiệp chỉ có thể phát triển mạnh mẽ khi có sự gắn bó, hỗ trợ thúc đẩy của công nghiệp. Hơn nữa, nông nghiệp là gốc, nhưng phải từng bước hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và về lâu dài, công nghiệp hóa là con đường cơ bản. Công nghiệp phát triển giúp cho nông nghiệp nâng lên một tầm cao mới với năng suất, chất lượng cao hơn.

Không chỉ đánh giá cao vai trò của công nghiệp và nông nghiệp, Hồ Chí Minh còn xem trọng vai trò của thương nghiệp đối với việc lưu thông hàng hóa. Người nhấn mạnh: “Thương nghiệp là cái khâu giữa nông nghiệp và công nghiệp. Thương nghiệp đưa hàng đến nông thôn phục vụ nông dân, thương nghiệp lại đưa nông sản, nguyên liệu cho thành thị tiêu dùng... Công tác thương nghiệp không chạy thì hoạt động nông nghiệp, công nghiệp sẽ bị rời rạc”4.

Hợp tác vùng miền: Hồ Chí Minh đề cập đến hợp tác thành thị - nông thôn, miền núi - miền xuôi và coi đây là sự hợp tác “giúp đỡ lẫn nhau”. Sự phát triển thành thị trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội chủ yếu do sự phát triển của công nghiệp đem lại, nhất là công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp… nên có sự gắn bó chặt chẽ với phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, thành thị là thị trường tiêu thụ các sản phẩm của nông thôn. Đồng thời, với ưu thế về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực có trình độ cao, thành thị sẽ hợp tác với nông dân, nông thôn trong việc ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, cử chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm, cung cấp máy móc, công cụ, cây giống… phục vụ sản xuất.

Trong hợp tác giữa miền núi và miền xuôi, Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đồng bào miền xuôi có trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật phát triển hơn nên phải giúp đỡ đồng bào thiểu số để cùng tiến bộ. Người chỉ rõ: “Hiện nay có hàng chục vạn đồng bào miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế miền núi5. Ngược lại, miền núi cung cấp sản phẩm về lâm nghiệp phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân miền xuôi, đặc biệt là các loại cây công nghiệp và nguồn khoáng sản phục vụ cho sản xuất công nghiệp.

Hợp tác giữa các thành phần kinh tế: Sau khi miền Bắc được giải phóng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng trong nền kinh tế nước ta tồn tại năm thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ; tư bản của tư nhân; tư bản của Nhà nước. Tuy mỗi thành phần kinh tế có vai trò, vị trí khác nhau nhưng lại có mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm phát huy mọi nguồn lực, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vị trí chủ chốt trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế quốc doanh nắm giữ các lĩnh vực then chốt, ảnh hưởng lớn đến quốc kế dân sinh, tạo nền tảng vật chất và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác. Với thành phần kinh tế của tư sản công thương, phải hướng hoạt động tới làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Trong thực hiện hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân, “Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo”6, nhằm giúp nhà tư bản tiếp thu cải tạo, hòa mình với Nhân dân lao động cùng xây dựng Tổ quốc. Bên cạnh đó, Người cũng chỉ ra: “Công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh bước đầu đi vào chủ nghĩa tư bản Nhà nước, với các hình thức thấp và vừa như gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý, v.v..”7.

Hợp tác giữa chủ - thợ: Thông qua nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giá trị thặng dư và qua thực tiễn đất nước, Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng mối quan hệ chủ - thợ là quan hệ bóc lột về kinh tế. Nhưng Người không nhìn nhận sự bóc lột đó với thái độ phủ định một cách đơn giản và máy móc, mà căn cứ vào điều kiện cụ thể, sự tác động đối với phát triển kinh tế và đời sống nhân dân để đưa ra chính sách hợp lý. Người kêu gọi tầng lớp công thương trả tiền lương và quy định chế độ làm việc thỏa đáng cho người lao động; đồng thời, vì lợi ích lâu dài, người lao động phải cố gắng làm việc, tiết kiệm thời giờ, vật liệu, để mang lại cho chủ số lợi hợp lý, không yêu cầu quá mức “vì lợi ích cho chủ tức là lợi ích cho mình một phần”8. Người căn dặn: “Chủ và thợ đều phải nhớ rằng: tăng gia sản xuất chẳng những có lợi riêng cho chủ và thợ, mà còn có lợi chung cho nền kinh tế của Tổ quốc, lợi chung cho toàn thể đồng bào”9.

Hợp tác giữa cán bộ quản lý với người lao động: Hồ Chí Minh chỉ rõ đây là quan hệ hợp tác gắn bó trên tinh thần làm chủ tập thể và thực hiện các nhiệm vụ được giao. Người quản lý không chỉ cần giỏi về lý thuyết, mà còn phải sát sao trong thực tiễn hoạt động sản xuất, hiểu rõ quy trình, các khâu trong dây chuyền sản xuất, đồng thời thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của người lao động, từ đó đưa ra những quyết định phù hợp với tình hình thực tiễn và có biện pháp quản lý hiệu quả. Về phía công nhân, không chỉ là lực lượng trực tiếp sản xuất mà còn có trách nhiệm tham gia quản lý, giám sát đối với chế độ tài chính công khai. Khi công tác quản lý hiệu quả, doanh nghiệp có lợi và người lao động cũng có lợi. Bởi vậy, Người yêu cầu: “Cán bộ ta phải cố gắng quản lý thật tốt các xí nghiệp, phải bảo đảm kinh doanh có lãi cho nước nhà”10. Muốn vậy, “Cán bộ và công nhân phải thật thà tự phê bình và phê bình, giúp đỡ lẫn nhau vì khuyết điểm của một người không phải của riêng một người đó, mà có ảnh hưởng đến toàn nhà máy”11.

Hợp tác kinh tế quốc tế

Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế là một trong những tư duy vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Người trong xây dựng, kiến thiết, phát triển đất nước.

Tiếp nhận đầu tư và hợp tác đầu tư với nước ngoài. Sau khi giành độc lập, những điều kiện để phát triển sản xuất như vốn, khoa học kỹ thuật, máy móc… của nước ta còn thiếu thốn, hạn chế. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương kêu gọi các nước dân chủ đến đầu tư ở Việt Nam trên những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu, chưa có điều kiện khai thác. Ngay sau khi Đại hội quốc dân Tân Trào kết thúc, ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh đã gửi thông điệp cho Chính phủ Pháp nêu ra đề nghị 5 điểm, trong đó có nội dung: “Chính phủ Pháp hưởng quyền ưu đãi trong kỹ nghệ và thương mại ở Việt Nam”. Ngày 09/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 48-SL quy định về việc tạm thời áp dụng đạo luật cũ đối với các công ty, các hãng kỹ nghệ, thương mại ngoại quốc ở Việt Nam, trong đó Điều 1 quy định: “Các hãng kỹ nghệ hoặc thương mại ngoại quốc hiện có ở Việt Nam vẫn được phép tiếp tục kinh doanh như cũ”12.

Ngày 14/01/1950, trong Lời tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng chính phủ các nước trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới”13. Trong Lời kêu gọi gửi Liên hiệp quốc, Người nêu rõ chính sách kêu gọi đầu tư và tạo các điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư ở Việt Nam: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình”14. Ngày 22/6/1947, trả lời một nhà báo nước ngoài, một lần nữa, Người khẳng định: “Chúng tôi rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước cộng tác thật thà với chúng tôi”15. Sau kháng chiến chống thực dân Pháp, Người vẫn giữ vững quan điểm Việt Nam sẵn sàng mở rộng hợp tác kinh tế với tất cả các nước.

Bên cạnh đó, để thực hiện mục tiêu lâu dài là công nghiệp hóa, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới đầu tư, hợp tác trong sản xuất công nghiệp. Người cho rằng một trong những điều khó khăn nhất khi Việt Nam bước vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa là thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, thiếu một nền đại công nghiệp cơ khí. Người kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp mà trước hết là từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc. Nhờ sự đầu tư đó (từ vốn, thiết bị đến việc thành lập các nhà máy, các khu công nghiệp) mà công nghiệp của nước ta từng bước phát triển hơn.

Thực hiện đào tạo, trao đổi nhân lực Việt Nam với quốc tế: Nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của nhân tố con người trong việc tiếp thu những thành tựu khoa học kỹ thuật mới, Hồ Chí Minh chủ trương “mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia”16. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh gửi nhiều bức thư đến tổng thống, bộ trưởng ngoại giao Mỹ bày tỏ nguyện vọng thiết lập mối quan hệ toàn diện với Mỹ. Trong Thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ GiêmBiếcNơ, ngày 01/11/1945, Người đề nghị Hoa Kỳ tiếp nhận 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với mong muốn thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, đồng thời xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác. Đây là nguyện vọng của tất cả kỹ sư, luật sư, giáo sư Việt Nam cũng như đại biểu trí thức khác, những người quan tâm sâu sắc đến sự phát triển của đất nước và “tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam”17. Tuy nhiên, đề nghị này đã không được Mỹ chấp nhận. Đây thực sự là một giới hạn lịch sử mà nước Mỹ đã thừa nhận bỏ qua cơ hội.

Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, việc đào tạo, trao đổi nhân lực diễn ra thường xuyên và có hiệu quả. Cùng với hợp tác về cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật, các nước xã hội chủ nghĩa thường xuyên cử chuyên gia sang công tác giúp đỡ Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều thanh niên, trí thức Việt Nam được cử sang các nước để học tập nhằm nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật, tổ chức, quản lý sản xuất. Điều này được Người khẳng định: “Chúng tôi đã đào tạo nhanh chóng các cán bộ cho tất cả các ngành hoạt động; chính vì vậy chúng tôi đã gây dựng được cơ sở để công nghiệp hóa đất nước, với sự giúp đỡ anh em của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc”18.

Trao đổi hàng hóa: Theo Hồ Chí Minh, ngoại thương có vai trò quan trọng đối với đất nước và “Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế”19. Ngay trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang bước vào giai đoạn ác liệt, tháng 3/1949, khi trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài, Người vẫn khẳng định chủ trương sau khi hòa bình lập lại, về ngoại thương, Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà.

Với hoạt động ngoại thương, Người nêu rõ những mặt hàng trao đổi, buôn bán: “Ta ra sức khai lâm thổ sản để bán cho các nước bạn và để mua những thứ ta cần dùng. Các nước bạn mua những thứ ta đưa ra và bán cho ta những hàng hóa ta chưa chế tạo được”20. Bên cạnh đó, “Chúng ta cần xuất khẩu nhiều than để mua thêm máy móc và nguyên liệu đặng phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa nhanh chóng hơn”21. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, khi chuyển từ nền kinh tế sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn, đòi hỏi phải nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại cho các ngành sản xuất. Muốn vậy, trong điều kiện nền kinh tế nước ta, phải đẩy mạnh sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tạo nguồn hàng hóa để xuất khẩu.

Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế: Quan điểm chủ động mở rộng quan hệ quốc tế được Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện ngay trong những ngày đầu đất nước được độc lập. Hiểu rõ quy luật, xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới, Hồ Chí Minh có tư tưởng không “đóng khung” đất nước mà tích cực tạo lập và tham gia các tổ chức quốc tế để thúc đẩy giao thương với phương châm “thêm bạn bớt thù”, đoàn kết quốc tế, củng cố hòa bình thế giới và giữ vững nền độc lập nước nhà vừa giành được; tăng cường tiềm lực, sức mạnh dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

2. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong tất cả các lĩnh vực. Về kinh tế, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh từ những bước đi đầu tiên đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ.

Ngay sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) - Đại hội lấy đổi mới tư duy về kinh tế với nội dung cơ bản là phát triển nông nghiệp làm nòng cốt, tạo đà cho phát triển công nghiệp và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của Nhà nước, Việt Nam đã sớm giải quyết được vấn đề an ninh lương thực, dần trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991), với phương châm mở rộng hợp tác quốc tế trên lĩnh vực kinh tế, đến nay, Việt Nam đã thiết lập, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế ở nhiều cấp độ khác nhau với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Hiện nay, Việt Nam cơ bản đã thoát khỏi tình trạng lạc hậu, trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển đa dạng với nhiều ngành nghề, thành phần, vị thế ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Nếu trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì đến giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng lên 8,2%/năm; giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng GDP tuy chậm lại nhưng vẫn đạt ở mức 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới. Năm 2018, mức tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 7,08%. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam đã có những tín hiệu tích cực trong sự chuyển dịch theo hướng hiện đại. Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến quan trọng. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của sản xuất và đời sống. Các ngành công nghiệp mới như: du lịch, bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả22.

Trong suốt quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế, có thể nhận thấy vai trò tích cực của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, tự do kinh doanh và cạnh tranh theo quy định của pháp luật. Kinh tế Nhà nước dần phát huy tốt hơn vai trò chủ đạo; hệ thống doanh nghiệp nhà nước từng bước được cơ cấu lại, cổ phần hóa và đang giảm mạnh về số lượng. Kinh tế tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới được hình thành phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có những đóng góp quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và xuất khẩu. Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp không ngừng phát triển và ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.

Trong hợp tác kinh tế quốc tế, Việt Nam dần hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng với nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường thế giới. Đồng thời thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế với các nước trong khu vực và thế giới. Tích cực xây dựng Cộng đồng ASEAN và hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo cam kết WTO. Tính đến nay, đã có 69 quốc gia, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam công nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường.

Những thành tựu hợp tác kinh tế đạt được trong hơn 30 năm đổi mới là nhờ sự nhận thức đúng đắn và kịp thời vận dụng tư tưởng phát triển kinh tế nói chung và quan điểm hợp tác kinh tế nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước. Trong điều kiện hiện nay, cần tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được và khắc phục những hạn chế còn tồn tại, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển hơn.

TS. Nguyễn Đức Nhuận

Viện Xây dựng Đảng,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bình luận

Bài viết liên quan | Xem tất cả