Ngành xuất bản với việc thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW

Ngày đăng: 06/12/2016 - 15:12

Những năm qua, ngành xuất bản đã đạt được một số kết quả quan trọng phục vụ hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, thích ứng tốt hơn với cơ chế thị trường, bước đầu đáp ứng nhu cầu đọc của các tầng lớp nhân dân, tiếp tục khẳng định vị thế là một lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, giải pháp theo tinh thần Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 25 tháng 8 năm 2004 về nâng cao chất lượng toàn diện của hoạt động xuất bản do Ban Bí thư ban hành, ngành xuất bản cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý.

ngành xuat ban 1512

Một số kết quả thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW

Trong nhiều năm trở lại đây, cùng với xu thế hội nhập và phát triển chung của đất nước, lĩnh vực xuất bản đã duy trì được nhịp độ phát triển; hệ thống tổ chức các nhà xuất bản ổn định; năng lực của một số nhà xuất bản được tăng cường; chất lượng một số mảng sách có chuyển biến tích cực; lực lượng lao động tại các nhà xuất bản có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng1. Lĩnh vực in có sự phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng, năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm in được cải thiện, hoàn thành bước đầu tiến trình hiện đại hóa ngành in, vươn lên tầm phát triển của khu vực 2. Lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm, mạng lưới phát hành sách có sự phát triển mạnh về số lượng, từng bước mở rộng quy mô và chuyển đổi mô hình hoạt động3; công tác quảng bá, hội chợ sách được quan tâm, đầu tư và có những bước chuyển biến tích cực.

Đóng góp vào thành tựu chung của toàn ngành, cần ghi nhận những chuyển biến tích cực và kết quả quan trọng trong công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản, thể hiện trên một số mặt sau:

Một là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng hoạt động xuất bản có nhiều đổi mới, kịp thời khắc phục một số hạn chế của hoạt động xuất bản. Trong quá trình triển khai Chỉ thị số 42-CT/TW, Ban Tuyên giáo Trung ương đã phối hợp với Ban cán sự Đảng Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tham mưu, đề xuất Ban Bí thư ra Thông báo Kết luận số 122-TB/TW về sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, Thông báo Kết luận số 289-TB/TW về mô hình hoạt động nhà xuất bản; ba Quyết định số 281, 282, 283-QĐ/TW về chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản. Các văn bản trên đã góp phần đôn đốc các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Chỉ thị số 42-CT/TW, định hướng quá trình sửa đổi Luật xuất bản và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác về xuất bản, đáp ứng yêu cầu đặt ra khi Việt Nam gia nhập WTO, khắc phục và giải quyết kịp thời một số hạn chế, bất cập trong thực tiễn của hoạt động xuất bản.

Ở các địa phương, vai trò chỉ đạo, định hướng của các cấp ủy đảng, chính quyền cũng có những chuyển biến tích cực theo hướng chú trọng đổi mới về phương thức chỉ đạo nhằm bám sát đòi hỏi của địa phương và đơn vị. Sự phối hợp giữa cơ quan chỉ đạo, quản lý xuất bản ở Trung ương với địa phương, giữa cơ quan quản lý nhà nước với cơ quan chủ quản nhà xuất bản đã chặt chẽ hơn, nhất là trong hoạch định chiến lược phát triển, công tác cán bộ và phối hợp xử lý các sai phạm.

Hai là, công tác thể chế hóa, xây dựng pháp luật được đẩy mạnh. Luật xuất bản đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung với mục tiêu tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, bảo đảm tính thống nhất trong quá trình thực thi luật, đáp ứng các yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước. Trên tinh thần Luật xuất bản, qua các lần sửa đổi, bổ sung, Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành 14 văn bản dưới luật để cụ thể hóa các quy định của Luật xuất bản, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất bản phát triển ổn định, đúng định hướng.

Một số chính sách khác liên quan đến hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, ưu đãi về thuế, thu hút các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản đã được bổ sung, điều chỉnh nhằm tăng cường quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu phát triển của hoạt động xuất bản, bước đầu phát huy hiệu quả tích cực. Hệ thống văn bản pháp lý về bảo hộ bản quyền, về doanh nghiệp, về cổ phần hóa dần được hoàn thiện.

Ba là, công tác quản lý nhà nước về xuất bản có một số chuyển biến tích cực. Bám sát nội dung cải cách hành chính, công tác quản lý đã đề cao vai trò, trách nhiệm, quyền hạn, tính năng động, sáng tạo của các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản; đẩy mạnh phân cấp quản lý theo hướng nâng cao vai trò quản lý vĩ mô, tăng cường trách nhiệm của cơ quan chủ quản nhà xuất bản; mở rộng một số quyền cho các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương.

Hoạt động cấp phép được thực hiện chặt chẽ, đúng thủ tục. Công tác phối hợp thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong hoạt động xuất bản được triển khai mạnh mẽ từ Trung ương đến địa phương. Công tác tài trợ, đặt hàng xuất bản phẩm đạt được một số kết quả quan trọng. Các giải pháp khuyến khích, phát triển văn hóa đọc có một số tiến bộ. Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định chọn ngày 21 tháng 4 hằng năm làm Ngày Sách Việt Nam, góp phần tôn vinh các tác giả, nhà nghiên cứu, nhà khoa học, động viên những người làm công tác xuất bản, tạo điều kiện quan trọng để văn hóa đọc phát triển.

Các cơ quan chủ quản đã quan tâm, chỉ đạo kịp thời những nội dung liên quan đến công tác xuất bản, định hướng kế hoạch xuất bản, đăng ký nguồn sách đặt hàng hằng năm đối với nhà xuất bản trực thuộc. Một số cơ quan chủ quản chú trọng, ưu tiên đầu tư về vốn, cơ sở vật chất, nhân lực cho các đơn vị xuất bản, in và phát hành, tạo điều kiện để các đơn vị này hoạt động hiệu quả.

Hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, hoạt động xuất bản cũng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản còn bộc lộ không ít hạn chế, bất cập, nổi bật là:

Thứ nhất, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng về hoạt động xuất bản trên một số mặt chưa kịp thời và hiệu quả, chưa bám sát thực tiễn. Nhiều nội dung quy định thiếu cụ thể, nhất là các quy định làm rõ tính đặc thù của hoạt động xuất bản, quy định về những vấn đề quan trọng, phức tạp, nhạy cảm trong nội dung xuất bản phẩm, gây khó khăn trong quá trình triển khai, thực hiện.

Với vai trò tham mưu cho cơ quan Đảng cấp trên, theo dõi, chỉ đạo hoạt động xuất bản trong phạm vi được phân công, Ban Tuyên giáo Trung ương, các ban tuyên giáo tỉnh ủy, thành ủy đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, đặc biệt trong việc nắm bắt, dự báo tình hình dẫn đến tình trạng khi thì can thiệp quá sâu, khi thì lúng túng, bị động trong theo dõi, tham mưu, phối hợp giải quyết xử lý.

Vai trò định hướng chính trị, tư tưởng của tổ chức đảng ở các cơ quan chủ quản, tại các nhà xuất bản, các đơn vị phát hành sách và các công ty in đã cổ phần hóa chưa được làm rõ. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác tổ chức cán bộ còn lúng túng. Công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm nguyên tắc tổ chức cán bộ của ban cán sự đảng, tổ chức đảng tại cơ sở chưa chặt chẽ.

Thứ hai, việc thể chế hóa chủ trương, định hướng của Đảng tuy có nhiều chuyển biến nhưng việc xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp với tính đặc thù của hoạt động xuất bản còn chậm, chưa phù hợp, thiếu các chương trình hành động cụ thể, khả thi nhằm thể chế hóa nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Chỉ thị số 42-CT/TW. Việc tổng kết, đánh giá kết quả triển khai chưa thường xuyên, thiếu hiệu quả. Sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW, nhiều vướng mắc cho loại hình doanh nghiệp nhà xuất bản vẫn chưa được giải quyết. Chính sách thuế, phí và đầu tư cho xuất bản chưa phù hợp. Các khoản thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp chậm được điều chỉnh. Quy chế, chính sách cho hoạt động của hệ thống nhà sách tư nhân; chính sách ưu đãi cho việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm tới các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; chính sách giảm giá sách đối với một số đối tượng chính sách xã hội, chính sách cho hoạt động thông tin đối ngoại, chính sách phát triển xuất bản điện tử còn chậm, thiếu đồng bộ. Chế tài xử lý các vi phạm trong việc in, buôn bán và sử dụng sách lậu còn yếu, chưa đủ sức răn đe.

Thứ ba, chất lượng quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản trên một số mặt chưa hiệu quả, chưa bám sát với yêu cầu thực tiễn. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chậm, tính dự báo chưa cao dẫn đến quy mô, số lượng, cơ cấu và sự phân bố của các nhà xuất bản, cơ sở in và phát hành thiếu cân đối. Việc triển khai mô hình hoạt động phù hợp cho nhà xuất bản còn nhiều bất cập; thiếu chính sách quản lý hiệu quả trước sự phát triển nhanh, mạnh đối với các cơ sở in và phát hành sách tư nhân. Công tác quảng bá sách và phát triển văn hóa đọc chưa tương xứng với yêu cầu trong thời kỳ mới. Công tác tài trợ, đặt hàng còn dàn trải, chưa phát huy hiệu quả đầu tư. Hệ thống thư viện và tủ sách ở cơ sở chưa được đầu tư đúng mức. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm còn chậm, sự phối hợp giữa các đơn vị liên quan chưa tốt. Quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các quy chế, tiêu chuẩn trong nghiệp vụ xuất bản, khắc phục các sai phạm, yếu kém trong công tác xuất bản, in và phát hành còn nhiều hạn chế.

Thứ tư, nhiều cơ quan chủ quản chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ, chưa thực hiện đầy đủ, nghiêm túc nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển, đặc biệt là chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Việc đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, trụ sở làm việc, dành cơ chế, chính sách thích hợp, tạo điều kiện cho nhà xuất bản khai thác nguồn bản thảo, tổ chức xuất bản tài liệu, sách trong phạm vi ngành, địa phương mình phụ trách chưa được nhiều cơ quan chủ quản quan tâm. Quá trình xây dựng, hoàn thiện quy chế hoạt động giữa cơ quan chủ quản và nhà xuất bản còn chậm.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Đó là:

Một bộ phận cơ quan chỉ đạo, quản lý chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò, tính đặc thù của hoạt động xuất bản trong cơ chế và điều kiện mới. Việc nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 42-CT/TW tuy đã được thực hiện nhưng chưa sâu rộng, chưa thực sự đi vào cuộc sống. Một số cấp ủy, chính quyền, cơ quan chủ quản nhà xuất bản coi các đơn vị xuất bản như những cơ sở làm kinh tế đơn thuần, thiếu quan tâm đến chức năng tư tưởng, văn hóa, giáo dục của hoạt động xuất bản. Một số cơ quan chỉ tập trung vào nhiệm vụ chính trị của xuất bản, không coi trọng và quan tâm đúng mức đến vấn đề kinh tế xuất bản. Những khẳng định về tính đặc thù của hoạt động xuất bản mới chỉ được thể hiện chủ yếu trên văn kiện của Đảng và chính sách định hướng vĩ mô của Nhà nước. Thiếu các quy định cụ thể thể hiện ưu đãi cho hoạt động xuất bản. Trách nhiệm của các cấp chính quyền trong việc tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.

Công tác lý luận chưa theo kịp thực tiễn phát triển của hoạt động xuất bản. Một loạt vấn đề quan trọng, liên quan tới sự phát triển của ngành chưa được làm rõ như: mô hình hoạt động xuất bản, xã hội hóa hoạt động xuất bản, quản lý hoạt động xuất bản sách điện tử… Từ chỗ chưa nhận thức đúng, đủ và có câu trả lời chính xác trước những vấn đề cấp thiết của hoạt động xuất bản dẫn đến nhiều vấn đề chưa được chỉ đạo, định hướng kịp thời, làm cho các đơn vị trong ngành lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí sai phạm trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

Năng lực nắm bắt, phát hiện vấn đề, chủ động kiểm soát tình hình, phối hợp tháo gỡ khó khăn của các cơ quan chỉ đạo, quản lý xuất bản, cơ quan chủ quản nhà xuất bản và các cơ quan có trách nhiệm liên quan còn nhiều hạn chế. Chức năng định hướng chiến lược thiếu chủ động, còn chạy theo vụ việc. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm có nơi, có lúc còn chậm, thiếu kiên quyết, không dứt điểm. Sự phối hợp giữa các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo với cơ quan quản lý còn yếu, giữa các cơ quan quản lý xuất bản và các cơ quan liên quan còn thiếu chặt chẽ. Vai trò định hướng chính trị, tư tưởng của tổ chức đảng, đoàn thể tại các nhà xuất bản chưa được phát huy. Không ít đơn vị xuất bản còn nặng tư duy bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Một số nhà xuất bản muốn quay lại cơ chế cũ, lo chạy dự án, xin kinh phí của Nhà nước nên không chủ động tiếp cận thị trường, hoạt động gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Sau hơn 30 năm đổi mới, vấn đề đổi mới tư duy vẫn thực sự là một yêu cầu cấp bách của ngành xuất bản.

Một số giải pháp

Để nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản, góp phần nâng cao chất lượng toàn diện hoạt động xuất bản, cần triển khai đồng bộ năm nhóm nhiệm vụ cụ thể và sáu nhóm giải pháp chủ yếu mà Chỉ thị số 42-CT/TW đã xác định,  trong đó, riêng đối với công tác chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản cần tập trung vào các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của hoạt động xuất bản, khắc phục cơ bản sự thiếu nhất quán giữa nhận thức và tổ chức thực hiện của các cơ quan chỉ đạo, quản lý, cơ quan chủ quản về các quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về công tác xuất bản. Đặc biệt, cần nhận thức sâu sắc những đặc điểm của môi trường truyền thông hiện đại, để từ đó xác định chính xác những yêu cầu trong chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản; giải quyết hiệu quả những yêu cầu, phức tạp nảy sinh trong hoạt động xuất bản, tạo điều kiện để hoạt động xuất bản có bước phát triển vững chắc, ổn định đáp ứng yêu cầu mới và cao trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, công tác lý luận về xuất bản, bám sát thực tiễn hoạt động xuất bản. Với chức năng là công cụ của công tác tư tưởng của Đảng, Nhà nước, để xuất bản hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải coi trọng việc cung cấp thông tin chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xuất bản. Để cung cấp thông tin chỉ đạo, định hướng hiệu quả, cần thu hẹp tối đa các “vùng cấm thông tin”. Bên cạnh đó là xây dựng cơ chế, chính sách đồng bộ (đầu mối chỉ đạo, định hướng, đầu mối tiếp nhận chỉ đạo để tiếp nhận, triển khai nội dung chỉ đạo một cách nhanh chóng, thông suốt, khoa học, tạo điều kiện để các cơ quan chỉ đạo, quản lý phối hợp chỉ đạo, định hướng một cách chủ động, chính xác, kịp thời, đầy đủ, hiệu quả nhất. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chỉ đạo, quản lý, tổ chức xã hội nghề nghiệp (Hội Xuất bản Việt Nam, Hiệp hội In Việt Nam) với các cơ quan chủ quản nhà xuất bản, các đơn vị in và phát hành; thực hiện nghiêm túc các quy chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan chủ quản; nêu cao tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị xuất bản, in và phát hành nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.

Thứ ba, đẩy mạnh thể chế hóa, hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất bản. Thường xuyên rà soát và khắc phục những bất cập trong các văn bản quy phạm pháp luật về xuất bản đáp ứng yêu cầu thực tiễn và xu thế phát triển của ngành. Tăng cường hơn nữa vai trò quản lý nhà nước về xuất bản thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý xuất bản; xây dựng cơ chế, chính sách để hỗ trợ, ưu đãi đầu tư cho hoạt động xuất bản. Tập trung xây dựng cơ chế, chính sách, hỗ trợ phát triển đối với hoạt động xuất bản, hoàn thiện các chính sách về thuế theo hướng áp dụng mức thuế suất hợp lý đối với hàng hóa xuất bản phẩm nhằm hỗ trợ các nhà xuất bản và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất bản; đồng thời tăng cường khả năng thu hút các thành phần kinh tế đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực đặc thù này. Có chế độ ưu tiên, ưu đãi về xây dựng cơ bản đối với các nhà xuất bản. Khuyến khích các hoạt động quảng bá, tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm sách trong và ngoài nước. Xây dựng chính sách đặt hàng ổn định theo tôn chỉ, mục đích và chức năng nhiệm vụ của từng nhà xuất bản. Tăng ưu đãi cước vận chuyển sách đến các khu vực khó khăn và gửi đi nước ngoài. Tăng mức thưởng đối với các giải thưởng nhằm khuyến khích, tôn vinh những người sáng tạo và những xuất bản phẩm có giá trị cao. Xây dựng chế độ, chính sách cho những nhà xuất bản có ấn phẩm phục vụ nhiệm vụ chính trị, các doanh nghiệp xuất bản có nhiệm vụ kinh doanh đặc thù.

Thứ tư, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý hoạt động xuất bản. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Quy hoạch phát triển, xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; rà soát, chấn chỉnh các hoạt động liên kết xuất bản nhằm ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi phạm; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá, rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng biên tập; kiên quyết xử lý các sai phạm, ngăn chặn nạn in và phát hành sách lậu. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan chủ quản làm tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết đối với đội ngũ lãnh đạo; tăng cường rà soát đội ngũ giám đốc, tổng biên tập, phó giám đốc, phó tổng biên tập các nhà xuất bản. Đôn đốc cơ quan chủ quản nhà xuất bản thực hiện tốt trách nhiệm lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí, tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất cho nhà xuất bản trực thuộc; tổ chức nhân sự, theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực hiện tôn chỉ, mục đích. Thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng, xóa bỏ tình trạng khen thưởng tràn lan, thiếu tính động viên. Cùng với khen thưởng định kỳ hằng năm các nhà xuất bản thực hiện đúng tôn chỉ mục đích, phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị, văn hóa, xã hội, cần chú ý biểu dương, khen thưởng kịp thời các nhà xuất bản, biên tập viên có thành tích tiêu biểu trong thông tin, tuyên truyền các sự kiện, vấn đề, nội dung cụ thể.

Thứ năm, chú trọng đầu tư cho công tác đào tạo, thu hút nguồn nhân lực cho lĩnh vực xuất bản. Xây dựng quy hoạch tổng thể các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ xuất bản từ nay đến năm 2020, tầm nhìn 2030, sắp xếp lại các cơ sở hiện có theo hướng chuyên sâu, tập trung, chính quy, hiện đại. Tăng cường cán bộ, cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh phí, giáo trình, tài liệu, chính sách khuyến khích, ưu đãi cho một số cơ sở đào tạo trọng điểm. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xuất bản, bao gồm cả đội ngũ cán bộ chỉ đạo, quản lý hoạt động xuất bản.

ThS. NGUYỄN NGUYÊN

Vụ Báo chí - Xuất bản

Ban Tuyên giáo Trung ương

1. Tính đến hết năm 2015, tổng vốn huy động phục vụ sản xuất của các nhà xuất bản là: 1.915,718 tỉ đồng; Tổng doanh thu: 2.143,878 tỉ đồng; Nộp ngân sách: 67,744 tỉ đồng; Lợi nhuận (sau thuế) của các nhà xuất bản đạt khoảng 100 tỉ đồng.

2. Năm 2015, tổng sản lượng toàn ngành in là hơn 1.000 tỉ trang in, doanh thu đạt khoảng 50.000 tỉ đồng.

3. Hiện có hơn 14.000 cơ sở phát hành trên cả nước, trong đó nhiều doanh nghiệp có số lao động đạt trên 2.000 người, có quan hệ thương mại với nhiều tập đoàn truyền thông, nhà xuất bản lớn trên thế giới.

Bình luận