Lê Đức Thọ - Nhà ngoại giao chiến lược tài ba

Ngày đăng: 11/11/2011 - 16:11

Nguyễn Dy Niên*

Mấy chục năm trong ngành ngoại giao, tôi đã có dịp tiếp cận đồng chí Lê Đức Thọ, một nhà lãnh đạo của Đảng đồng thời là nhà ngoại giao chiến lược tài ba. Hình ảnh lắng đọng nhất trong tôi về đồng chí Lê Đức Thọ là mái đầu bạc trắng khi đồng chí tuyên cáo với thế giới về thắng lợi của Việt Nam sau ký kết Hiệp định Pari năm 1973 và khi ngồi bên bàn làm việc. Những trọng trách mà đồng chí đã đảm nhận, những tháng ngày trăn trở trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán đã để lại dấu ấn trên mái tóc bạc phơ ấy khiến tôi không ít lần liên tưởng tới các vị tiền nhân suốt cả cuộc đời tận tụy phấn đấu và hy sinh, dành trọn trí lực và tâm hồn cho dân tộc và đất nước.

acovanleductho

Khi trực tiếp hoạt động ngoại giao cũng như tham gia chỉ đạo công tác đối ngoại, đồng chí Lê Đức Thọ luôn là nhà ngoại giao xuất sắc với tầm nhìn xa trông rộng về chiến lược và khôn khéo, kiên quyết về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược. Tên tuổi đồng chí gắn liền với cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ ở Pari, đưa lại Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, một thắng lợi ngoại giao có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc Việt Nam. Những cuộc đàm phán công khai và bí mật của đồng chí Lê Đức Thọ trong hơn 5 năm ấy ở Pari có thể được coi là một chặng đường của ngoại giao Việt Nam. Tài thao lược ngoại giao và công lao của đồng chí Lê Đức Thọ trong cuộc đấu trí với những đại diện tinh tú nhất của nền ngoại giao Hoa Kỳ đương thời cũng còn thể hiện một đặc thù của nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam: vượt qua tất cả mọi khó khăn và trở ngại, hiệp đồng hiệu lực với những mặt trận và binh chủng khác, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng phục vụ Đảng và nhân dân của mình, đồng chí Lê Đức Thọ luôn thể hiện là người chiến sĩ cộng sản nhiệt thành và kiên định, trung thành tuyệt đối với lợi ích của dân tộc, của đất nước. Tầm nhìn chiến lược của đồng chí xuất xứ từ những tính cách ấy, từ khả năng phân tích tổng hợp sắc sảo về thế và lực giữa ta và địch trên chiến trường, về tranh thủ cơ hội và tìm cách tạo dựng cơ hội trong đàm phán, từ sự kết hợp tài tình giữa kiên trì nguyên tắc và linh hoạt, mềm dẻo trong đối sách cụ thể, khiến cho đối phương luôn bị thuyết phục và ta luôn ở thế chủ động tiến công.

Những hoạt động ngoại giao của đồng chí Lê Đức Thọ để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho nền ngoại giao Việt Nam. Ở Hội nghị Pari, đồng chí đã vận dụng tài tình phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn hướng vào mục tiêu chiến lược là buộc Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, phải rút hết quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt hoàn toàn chiến tranh phá hoại miền Bắc và dính líu quân sự trên toàn Việt Nam, để từ chỗ làm cho "Mỹ cút" tiến tới đánh cho "ngụy nhào". Trong cuộc đấu trí dai dẳng và gian nan đó, đồng chí Lê Đức Thọ đã phát huy cao độ tác động của sách lược "đánh và đàm", chủ động tấn công ngoại giao đến cùng, làm thất bại mọi âm mưu và làm phá sản mọi con bài ngoại giao của đối phương.

Nhà ngoại giao tài ba Lê Đức Thọ đã kế thừa phong cách ngoại giao truyền thống của đất nước. Trong tư duy ngoại giao của đồng chí có dấu ấn và ảnh hưởng của tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, của những tinh túy ngoại giao được cha ông đúc rút và truyền thụ cho đời sau, được giữ gìn trong hoài bão chung của mọi người Việt Nam về đất nước Việt Nam tự do, độc lập và phồn vinh, tỏa sáng qua bao thời đại, qua thăng trầm của lịch sử, cam go của số phận và trường tồn với lịch sử hào hùng của dân tộc.

Năm 2000, ngành ngoại giao kỷ niệm 55 năm thành lập ngành. Năm 2000 cũng kỷ niệm 10 năm ngày mất của đồng chí Lê Đức Thọ. Nhớ về đồng chí Lê Đức Thọ, thế hệ cán bộ, nhân viên ngoại giao ngày nay luôn nhớ đến những đóng góp quan trọng của đồng chí cho ngành ngoại giao Việt Nam, tự hào về những thành quả đối ngoại của đất nước và về nhà ngoại giao chiến lược tài ba Lê Đức Thọ.

*

*         *

Kể từ ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, ngoại giao Việt Nam đã trải qua bốn giai đoạn:

Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương năm 1954.

Giai đoạn chống Mỹ, cứu nước và Hội nghị Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Giai đoạn chống chiến tranh biên giới phía Tây Nam và phía Bắc và chống bao vây cấm vận.

Giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế ngày nay.

Tôi tham gia công tác ngoại giao từ năm 1954 đến năm 2006 và được trải nghiệm qua hầu hết các giai đoạn đó. Điều vinh dự lớn đối với tôi là ngành ngoại giao được làm việc dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của những ngôi sao ngoại giao Việt Nam như các đồng chí Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh và sau này là đồng chí Nguyễn Cơ Thạch. Với đồng chí Lê Đức Thọ, điều tôi ấn tượng nhất là sự lãnh đạo của đồng chí ở hai giai đoạn: chống Mỹ, cứu nước và Hội nghị Pari; chống chiến tranh ở hai đầu biên giới và giải quyết vấn đề Campuchia.

Nhìn lại lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc hàng ngàn năm của nhân dân ta, có hai cuộc đấu trí trên bàn thương lượng nổi bật nhất để buộc quân xâm lược phải rút quân về nước, từ bỏ dã tâm xâm lược Việt Nam. Đó là cuộc nghị đàm giữa đại diện của nghĩa quân Lam Sơn với đại diện của quân xâm lược nhà Minh. Đầu năm Đinh Mùi (1427) theo lệnh của chủ tướng Lê Lợi, quan thừa chỉ Nguyễn Trãi đã năm lần vào thành Đông Quan (Hà Nội ngày nay) để nghị hòa với Vương Thông, chủ tướng của quân xâm lược Minh đang chiếm đóng nước ta. Với sự chỉ huy tài tình của Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan cánh quân tiếp viện của bọn xâm lược nhà Minh, chém đầu tướng Liễu Thăng ở ải Chi Lăng, buộc cánh quân Mộc Thạch ở phía Tây Bắc phải bỏ chạy. Nghĩa quân Lam Sơn xiết chặt vòng vây thành Đông Quan và các thành trì khác, đồng thời kêu gọi Vương Thông và bọn cố thủ ở các thành trì ra đầu hàng. Với thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn trên các mặt trận và tài thương lượng của Nguyễn Trãi trên bàn nghị đàm, cuối cùng bọn xâm lược phải hạ vũ khí và kết thúc bằng hội thề Đông Quan. Bài văn Hội thề đã đi vào lịch sử như một bản hiệp định rút quân. Cuối năm 1427, hàng chục vạn quân xâm lược nhà Minh phải lần lượt rút về nước. Nhân dân Đại Việt ca khúc khải hoàn với bản hùng văn muôn đời Bình Ngô đại cáo của Bình định vương Lê Lợi do quan thừa chỉ Nguyễn Trãi soạn thảo.

Cuộc đấu trí thứ hai trong lịch sử đó là Hội nghị Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được tiến hành từ tháng 10-1968 đến tháng 1-1973. Cuộc đấu trí gần 5 năm này là cuộc thương lượng kéo dài nhất thế giới để chấm dứt một cuộc chiến tranh. Với đường lối chiến lược tài tình của Bác Hồ và của Trung ương Đảng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của nhân dân miền Nam Tết Mậu Thân năm 1968, cuộc phản công chiến lược mùa Xuân năm 1972 và trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972 đã buộc Mỹ đến Pari để nghị đàm với Việt Nam và ký kết hiệp định kết thúc chiến tranh. Ở đây có các cuộc thương lượng công khai và thương lượng bí mật. Thương lượng công khai để đấu lý và tranh thủ dư luận. Thương lượng bí mật để mặc cả, đây mới là thực chất. Phía Mỹ cử Henri Kítxinhgiơ, một học giả kỳ cựu và là một trong những khối óc (think tank) lớn nhất của nước Mỹ thời bấy giờ, dẫn đầu đoàn Mỹ đàm phán bí mật. Phía ta, Bác Hồ đích thân lựa chọn đồng chí Lê Đức Thọ dẫn đầu đoàn đàm phán Việt Nam. Vào thời điểm đó, đồng chí Thọ vừa được Đảng cử vào miền Nam đảm nhiệm chức vụ Phó Bí thư Trung ương Cục sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968. Mới đặt chân trên đất thành đồng Tổ quốc chưa được bao lâu, đồng chí đã phải trở lại Hà Nội gấp.

Sự lựa chọn của Bác Hồ và Bộ Chính trị cử đồng chí Lê Đức Thọ đi Pari là vô cùng chính xác. Đến nay cuộc đàm phán Việt - Mỹ tại Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, cuộc đối đầu trí tuệ Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ đã kết thúc gần 40 năm. Bây giờ có thời gian nhìn lại, chúng ta mới thấy hết tài năng tuyệt vời của nhà ngoại giao tài ba Lê Đức Thọ.

Đành rằng việc ký kết Hiệp định Pari là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, nhưng với nhiệm vụ kết thúc cuộc chiến tranh bằng những văn kiện pháp lý quốc tế thì vai trò thương lượng của người đứng đầu ở bàn đàm phán có vị trí vô cùng quan trọng.

Lê Đức Thọ trong suốt gần 5 năm đàm phán ở Pari, ông được ví như vị tướng ở ngoài biên. Ông thực hiện rất nghiêm túc đường lối chiến lược trong đàm phán mà Bác Hồ đã trực tiếp căn dặn và những chủ trương của Bộ Chính trị đã đề ra. Nhưng phần đóng góp của cá nhân ông thật là to lớn. Ông đã có sự vận dụng sáng tạo, luôn luôn giành thế chủ động tấn công, buộc đối phương phải đi vào đàm phán theo cách của mình. Đã có lúc Kítxinhgiơ phải thốt lên: "Tôi có thể làm tốt hơn nếu như đối diện trên bàn đàm phán không phải là ông Lê Đức Thọ", "đàm phán với ông Thọ quả là cân não!".

Sau khi Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27-1-1973, cả thế giới ca ngợi tài trí ngoại giao của ông Lê Đức Thọ. Hình ảnh của ông, danh tiếng của ông tràn ngập trên các trang báo lớn của Mỹ, phương Tây và các nước khác. Và vì vậy, ngay năm 1973, Uỷ ban Giải thưởng Nôben đã quyết định trao Giải Nôben Hòa bình, một giải thưởng danh giá nhất thế giới cho ông. Với bản lĩnh và sự nhạy cảm của mình, ông đã từ chối nhận giải vì lúc đó Việt Nam chưa thực sự có hòa bình, nhưng thật ra trong thời điểm đó khó có thể nhận Giải Nôben Hòa bình cùng đứng liên danh Lê Đức Thọ - Kítxinhgiơ vì cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ quá khủng khiếp, tang tóc, đau thương còn hiển hiện khắp mọi nơi trên đất nước, nạn nhân của chiến tranh phải có thời gian mới nguôi ngoai được.

Nhiều lúc tôi tự hỏi một người như ông Thọ, không qua một trường lớp ngoại giao nào cả, có thể nói ngoại giao là nghề tay trái của ông vì sở trường của ông là chính trị, quân sự và tổ chức, nhưng tại sao trong ngoại giao, ông lại thể hiện tài ba đến như vậy, đến kẻ thù cũng phải kính nể ông. Có lẽ trong con người ông đã hội tụ những tố chất:

1- Đó là nhiệt huyết của con người cách mạng luôn phấn đấu cho độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc. Ở tuổi 20, ông đã tham gia cách mạng, hai lần bị giam cầm trong nhà tù của thực dân Pháp, vào sinh ra tử trong các địa bàn nguy hiểm nhất của cuộc đấu tranh đã hun đúc trong ông ý chí và quyết tâm chiến đấu cho lý tưởng cách mạng dưới ngọn cờ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2- Đó là sự thông minh bẩm sinh kế thừa truyền thống gia đình và quê hương. Nhưng không có sự thông minh nào mà không có sự rèn luyện, tìm tòi, học hỏi, tích luỹ và sáng tạo và ông đã tích luỹ được kiến thức trong cuộc chiến tranh, trong cuộc sống, trong nhân dân và nhất là sự tiếp cận với trí tuệ của lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam và của nhân loại và biến nó thành nguồn trí tuệ của ông.

3- Đó là một phương pháp khoa học hết sức lôgích, hết sức hệ thống. Có lẽ ông nắm vững ngũ tri (năm điều biết: biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến hóa). Ông là nhà lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm nên ông biết mình lắm, biết rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của Việt Nam ở chiến trường và những nơi khác. Biết người, ông tinh tường lắm, ông biết Mỹ đang bế tắc tìm lối ra khỏi vũng lầy chiến tranh, nhưng lại muốn ra đi trong thế mạnh và bảo toàn cho đồng minh của mình. Ông nắm vững thời thế lúc đó, khi phong trào chống chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam lan rộng ra toàn thế giới và trong lòng nước Mỹ, buộc chính quyền Mỹ phải sớm kết thúc đàm phán với Việt Nam. Đàm phán có lúc rất căng, ông phê phán Mỹ hết sức gay gắt, nhưng ông biết dừng đúng chỗ, đúng lúc. Khi đàm phán đi vào bế tắc, ngõ cụt, nhất là việc Mỹ đòi quân đội miền Bắc rút khỏi miền Nam như quân đội Mỹ. Đó là điều không thể được. Nhưng ông biết biến hóa phá vỡ bế tắc. Ông đưa ra sáng kiến vấn đề lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam do các bên Việt Nam giải quyết với nhau. Cuối cùng Mỹ không có sự lựa chọn nào khác đành phải chấp nhận phương án đó.

4- Đó là dũng khí của một chiến sĩ cách mạng kiên cường, của một nhà thương lượng ngoại giao đầy bản lĩnh. Trong suốt quá trình thương lượng, phía Mỹ không ít lần đưa ra những lời đe dọa. Ông Thọ đã không ngần ngại đáp lại: "Chúng tôi đã đánh nhau với các ông 10 năm và cũng đã đàm phán 5 năm rồi. Nay các ông có sẵn sàng mới đi đến giải quyết, không thể dùng đe dọa với chúng tôi được đâu". Và đúng như vậy, dưới mái đầu bạc trắng như mây, vẫn toát lên những lời nói đanh thép, nhiều lần Kítxinhgiơ phải cúi gầm mặt xuống nghe ông Thọ nói với những từ ngữ khá nặng nề như lừa dối, ngu xuẩn, tráo trở, lật lọng... Thật là dũng cảm! Không có dũng khí không làm được. Khi nghỉ giải lao, Kítxinhgiơ hỏi ông Thọ: "Ông có bao giờ mắng cán bộ mình như mắng tôi không?". Ông Thọ nói: "Tôi chỉ nói lên tiếng nói của nhân dân tôi thôi. Cán bộ của tôi có quay quắt, lật lọng, tráo trở đâu mà tôi mắng họ".

Ngũ tri và "dĩ bất biến, ứng vạn biến" là điều mà Bác Hồ luôn căn dặn các nhà ngoại giao Việt Nam. Ở ông Lê Đức Thọ, những điều đó hình như đã nhập tâm, đã nhuần nhuyễn. Cái bất biến trong thương lượng của ông với Kítxinhgiơ là "làm cho Mỹ cút, làm cho ngụy nhào" nhưng muốn bảo vệ được cái bất biến đó thì cần phải biết cách vạn biến và trí tuệ của ông được thể hiện chính là ở đây và điều này cũng toát lên tài trí và sự khôn khéo của nhà ngoại giao tài ba Lê Đức Thọ.

Với Hiệp định Pari 1973, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu đánh cho Mỹ cút, đưa đến đại thắng mùa Xuân năm 1975 hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Hòa bình được lập lại, nhân dân phấn khởi xây dựng đất nước, nhưng chẳng được bao lâu, năm 1978, bọn diệt chủng Pônpốt cho quân sang xâm lược, giết hại đồng bào ta ở biên giới Tây Nam. Đứng trước những hành động bạo ngược đó và hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, Quân đội nhân dân Việt Nam đã đánh trả hành động xâm lược của bọn diệt chủng Pônpốt, đồng thời giúp đỡ nhân dân Campuchia loại trừ nạn diệt chủng vô cùng khủng khiếp đó. Và tiếp ngay sau đó, tháng 2-1979, lại nổ ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Thời kỳ đó, đất nước ta bị bao vây cấm vận nghiệt ngã, nhiều khó khăn và thách thức đặt ra. Ông Lê Đức Thọ lúc đó được Bộ Chính trị phân công phụ trách mảng công tác đặc biệt khó khăn nhất, trực tiếp chỉ đạo công tác có liên quan đến quan hệ với Campuchia. Và sau đó ông phụ trách khối tư tưởng, nội chính và ngoại giao.

Công tác ngoại giao lại được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông. Thời kỳ đó ông có đóng góp rất lớn cho mối quan hệ Việt Nam - Campuchia và tìm giải pháp cho vấn đề Campuchia tiến tới việc ký kết hiệp định về Campuchia tháng 10-1991. Những năm sau này, tôi mới được làm việc trực tiếp với ông Thọ. Hơn 10 năm sau Hội nghị Pari mà ông vẫn sôi nổi, quyết liệt, quyết đoán và quyết tâm như hồi nào. Có một vài lần ông đã cho những ý kiến nhận xét, phê phán gay gắt vào những đề án đấu tranh ngoại giao của chúng tôi trình lên nhưng chưa đạt yêu cầu. Nhiều lúc tôi ngồi nghe mà toát cả mồ hôi, nhưng về cơ quan bình tĩnh suy ngẫm kỹ mới thấy nhiều điều được soi sáng. Đầu năm 1990, thật là một tổn thất to lớn khi ông ốm nặng, chúng tôi không xin được ý kiến chỉ đạo của ông về công tác ngoại giao, nhất là những vấn đề liên quan đến Campuchia đang đi vào giai đoạn cuối của giải pháp.

Ngày 13-10-1990, ông ra đi vĩnh viễn. Ngành ngoại giao mất đi một người thầy, một người anh, một nhà lãnh đạo. Những năm tiếp theo, chúng ta đi những bước lớn trong quan hệ quốc tế, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, với Mỹ, gia nhập ASEAN, APEC và các mối quan hệ khác. Vắng ông Thọ ở tầm lãnh đạo cao, chúng tôi cảm thấy thiệt thòi. Không được tiếp nhận sự chỉ bảo và chỉ đạo của ông, nhất là không được nghe ông phân tích, lý giải sự việc để tránh được những mưu mẹo, ý đồ của người khác mà tầm suy nghĩ của chúng tôi chưa với tới. Có những bài học sau này làm tôi suy nghĩ - giá như ông Thọ còn sống thì chúng ta tránh được.

Vào những ngày cuối của cuộc đời, ông chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo. Bộ Ngoại giao lúc đó tìm được chiếc máy từ của Ấn Độ chữa trị cho căn bệnh đó. Anh Nguyễn Cơ Thạch bảo tôi cầm chiếc máy đó sang nhà ông để hướng dẫn cho bác sĩ điều trị. Nằm trên giường bệnh, ông chìa tay ra nắm tay tôi và nói: "Niên đấy à". Ít lần tôi được trực tiếp làm việc riêng với ông, nhưng ông vẫn nhớ tên. Vì bệnh tình lúc quá nặng nên không thể cứu chữa được nữa. Chúng tôi vô cùng xót xa và thương tiếc một tài năng như ông.

Những gì ông cống hiến cho nền ngoại giao Việt Nam là những bài học vô cùng quý giá cho các thế hệ ngoại giao hiện tại và tương lai. Học tấm gương sáng của ông, tôi nghĩ các nhà ngoại giao cần phải:

- Suốt đời phục vụ cho lợi ích của đất nước, của nhân dân;

- Bản lĩnh vững vàng, kiên cường bất khuất trong đấu tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;

- Không ngừng học tập để nâng cao tri thức về mọi mặt;

- Quyết liệt trong mọi công tác được giao phó để hoàn thành bằng được nhiệm vụ dù khó khăn đến đâu.

Lê Đức Thọ là con người đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ cái đúng, chống cái sai. Chính cái không khoan nhượng đó đã đưa đến sự nhận thức khác nhau về con người ông. Khi làm thơ thi sĩ phải thật lòng. Không thật thì làm sao có cảm xúc để có những vần thơ hay. Hãy đọc những vần thơ của Lê Đức Thọ. Trong thơ, ông giãi bày tình cảm của ông đối với đất nước, quê hương, với đồng bào, đồng chí, với cán bộ, với chiến sĩ... Tình thương của ông là bao la, là chân thật từ trái tim ông. Tôi mong rằng thời gian sẽ giúp chúng ta nhìn nhận đúng như chính con người ông, không thêm bớt. Lịch sử vốn trung thực, nhân dân vốn công bằng. Những gì thuộc về ông hãy để lại cho ông. Đến đây tôi xin trích một đoạn thơ của con gái ông - Lê Trung Nguyệt viết về cha mình:

Đừng ai bỏ muối

Đừng ai pha đường

Ai đừng vắt chanh

Ai đừng rắc ớt

Ai đừng xức nước hoa

Đừng ai tô phấn sáp

Để cha yên nghỉ - linh hồn Người

Chỉ nước trắng và hoa.

Từ lăng kính ngoại giao, chúng tôi chỉ muốn sự trung thực đến với ông, một con người đã hiến dâng trọn cuộc đời cho cách mạng và dân tộc. Hôm nay, nhân kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của ông, tôi xin được thắp nén nhang với một chén nước trắng tinh khiết từ lòng đất của quê hương Nam Định trên bàn thờ ông để tỏ tấm lòng tôn kính và tri ân ông.

 

Hà Nội, tháng 10-2011



* Nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

Trích trong cuốn Lê Đức Thọ - Người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo tài năng;

Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, 2011

Bình luận

Bài viết liên quan | Xem tất cả